Xã hội Ấn Ðộ thời Ðức Phật tại thế, có nhiều người có học thức
theo đuổi tri thức chỉ đơn giản phục vụ cho nhu cầu lợi ích của riêng họ. Những
người này chất chứa trong họ đầy những kiến thức lý thuyết. Thực tế, một vài vị
trong số họ du hành từ thành này sang thành khác thách thức mọi người tranh luận
và sự cảm xúc kích động lớn nhất của họ là đánh bại đối phương trong những đợt
tranh luận bằng miệng như thế. Song Ðức Phật dạy rằng những hạng người như thế
thì không gần với sự giác ngộ chân lý bởi vì mặc sự thông minh sáng suốt và tri
kiến của họ họ không có chân trí tuệ để điều phục tham lam, sân hận, si mê.
Trong thực tế, những người này thường rất tự hào và vô minh. Những quan niệm về
bản ngã của họ làm quấy nhiễu cái không khí tôn giáo.
Theo Ðức Phật, con người ta trước hết phải tìm hiểu được nguồn
tâm của chính mình. Ðiều này được thực hiện thông qua sự tu tập định, mà chính
nhờ định con người ta mới có được nguồn trí tuệ uyên thâm bên trong hoặc là sự
giác ngộ thâm uyên. Và nguồn trí tuệ này đạt được không phải bằng con đường
tranh biện triết lý hoặc là tri thức thế gian mà là bằng con đường nhận thức
yên lặng về bản chất vô minh của tự ngã.
Phật giáo là một triết lý sống chân chánh nhằm mang lại một cuộc
sống hòa bình va an lạc, hạnh phúc cho mỗi chúng sinh hiện hữu trên cuộc đời
này. Phật giáo là một phương pháp đoạn trừ những khổ đau trong cuộc sống và tìm
ra con đường giải thoát, giác ngộ. Giáo lý của Ðức Phật không chỉ hạn hẹp trong
một phạm vi quốc gia hay chủng tộc nào. Ðó cũng không phải là một tín ngưỡng
hay là một niềm tin suông. Ðó là một lời dạy cho toàn thể vũ trụ. Ðó là một hệ
thống giáo lý dành cho tất cả mọi thời đại. Mục đích của những lời dạy ấy là nhằm
phục vụ với tinh thần vị tha, vô ngã,
thiện chí, hòa bình, giải thoát, tự do khỏi tất cả những khổ đau của cuộc đời.
Giải thoát, tự do trong Phật giáo là để phục vụ cho lợi ích của
cá nhân. Chúng ta phải tự cứu lấy chính bản thân mình cũng như chúng ta phải
ăn, uống và ngủ nghỉ cho chính bản thân. Lời khuyên được Ðức Phật đưa ra nhằm
chỉ cho nhân loại con đường hướng đến sự giải thoát; chứ Ðức Phật không bao giờ
dự định đưa ra những lời khuyên nhằm lấy đó xây dựng nên một hệ thống học thuyết
hay là một triết lý. Khi Ngài được mọi người hỏi đến hệ thống học thuyết nào
Ngài thuyết giảng, Ðức Phật đáp lại rằng Ngài không thuyết giảng bất cứ hệ thống
học thuyết nào và bất cứ những điều Ngài thuyết giảng là kết quả của những kinh
nghiệm mà chính bản thân Ngài đã kinh qua. Do đó, giáo lý của Ngài không đưa ra
một hệ thống học thuyết nào cả. Học thuyết không thể mang con người tiến lại gần
sự hoàn thiện về mặt tâm linh. Những học thuyết chính là những kiết sử trói buộc
tâm thức con người và cản trở sự tiến bộ về mặt tâm linh. Ðức Phật nói: “Những
bậc trí không tin vào những học thuyết đã được thông qua. Họ chỉ tin vào những
gì đã kinh qua mà bản thân họ đã thấy và nghe”.
Những học thuyết là sản phẩm của tri thức và Ðức Phật hiểu được
những sự hạn chế của tri thức nhân loại. Ngài dạy rằng sự giác ngộ không phải
là sản phẩm của tri thức. Người ta không thể đạt được sự giải thoát bằng cách
tham gia vào một khóa học cung cấp tri thức. Lời phát biểu này dường như phi lý
song đó là chân lý. Giới trí thức có khuynh hướng bỏ ra nhiều thời gian quý giá
của mình cho việc nghiên cứu, cho những phân tích nghiên cứu và dự kiện. Họ thường
dành rất ít hoặc không có thời gian cho việc hành trì.
Một tư tưởng gia vĩ đại (một triết gia, khoa học gia, siêu hình
học gia v.v...) cũng có thể hóa ra là một người tri thức ngu muội. Vị ấy có thể
là một con người khổng lồ về tri thức, có khả năng cảm nhận những ý kiến một
cách nhanh nhẹn và bày tỏ những cảm xúc rõ ràng. Nhưng nếu vị ấy không chú ý đến
hành động của mình và những hậu quả của nó và nếu vị ấy chỉ hướng đến việc thành đạt những ham muốn và ý
định của bản thân mình dù bất cứ giá nào thì lúc đó, theo Ðức Phật, vị ấy là một
con người trí ngu muội, một con người cấp dưới có tri thức. Một con người như
thế sẽ thực sự ngăn cản sự tiến bộ về mặt tâm linh của vị ấy.
Những lời dạy của Ðức Phật bao hàm nguồn trí tuệ thiết thực
không thể bị hạn cuộc trong một học thuyết hay một triết thuyết nào bởi vì triết
lý đề cập chủ yếu đến vấn đề tri thức chứ nó không quan tâm đến vấn đề chuyển dịch
tri thức thành những hành động được hành trì hằng ngày trong cuộc sống.
Phật giáo chú trọng đến việc hành trì và giác ngộ. Triết gia có
thể nhìn thấy những khổ đau và những thất vọng của cuộc đời song không giống
như Ðức Phật, ông ta không đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm vượt qua những
khổ đau của chúng ta vốn là một phần của bản chất vô thường của cuộc đời. Triết
gia chỉ đẩy những tư duy của mình đến chỗ bế tắc. Triết lý thì hữu dụng bởi vì
nó làm giàu và phong phú thêm sự tưởng tượng về mặt tri thức và xua tan lòng tự
tin mang tính giáo điều khiến cho tâm không thể tiến bộ xa hơn nữa. Xét đến mức
độ đó, Phật giáo đánh giá cao triết học, song triết học đã thất bại trong việc
làm dịu đi cơn khát tâm linh.
Nên nhớ rằng mục đích chính yếu của Phật giáo là đạt được sự
thanh tịnh và giác ngộ. Sự giác ngộ đánh bại sự vô minh vốn là cội nguồn của
sanh tử. Tuy nhiên, sự đánh bại vô minh này không thể đạt được ngoại trừ chỉ bằng
tu tập lòng can đảm tự tin của chính chúng ta. Tất cả mọi nỗ lực khác, đặc biệt
những nỗ lực chỉ thiên về mặt tri thức thì không có hiệu quả. Ðây là lý do tại
sao Ðức Phật kết luận: “Những câu hỏi siêu hình này không mang lại lợi ích,
chúng không liên quan đến Chánh pháp; chúng không đưa đến chánh hạnh, hoặc là
ly tham, hoặc là sự thanh tịnh không có các tham ái, không đưa đến sự tĩnh lặng,
không đưa đến tri kiến chân thật, cũng không đưa đến trí tuệ cao hơn, Niết-bàn”.
(Trung Bộ Kinh-Kinh Malunkyaputta). Trong lĩnh vực suy cứu siêu hình học, Ðức
Phật quan tâm nhiều hơn đến một giáo lý chứa đựng một sự hiểu biết thiết thực về
Bốn Chân Lý (Tứ Thánh Ðế) mà Ngài đã khám phá ra: đó là khổ đau là gi, nguồn gốc
của khổ đau là gì, sự đoạn tận của khổ đau là gì và làm thế nào để vượt qua khổ
đau và chứng đắc sự giác ngộ cuối cùng. Những chân lý này là những vấn đề thực
tế phải được liễu tri hoàn toàn và chứng đắc hoàn toàn bởi những ai thực sự
kinh qua sự giải thoát, giác ngộ.
Giác ngộ là sự chấm dứt, xoá sạch gốc rễ của vô minh; đó là một
lý tưởng sống của người Phật tử. Hiện nay chúng ta có thể chứng kiến rõ ràng rằng
sự giác ngộ không phải là một hành động mang bản chất tri thức. Thái độ chỉ suy
cứu, tư biện trái ngược với sự giác ngộ và không có sự quan hệ gần gũi thân tình
với cuộc sống. Ðây là lý do lý giải tại sao Ðức Phật chú trọng nhiều hơn đến
kinh nghiệm cá nhân. Thiền định là một hệ thống khoa học thực tiễn để chứng
minh Chân lý có được nhờ vào kinh nghiệm bản thân. Nhờ thiền định, ý chí cố gắng
vượt khỏi những điều kiện mà nó đã đặt lên tự ngã và đây là sự giác ngộ của ý
thức. Siêu hình học chỉ trói buộc chúng ta trong một khối tư tưởng và ngôn từ rối
rắm và lộn xộn.